Nội dung
Khái niệm về dính buồng tử cung
Dính buồng tử cung – hay còn được gọi là hội chứng Asherman – là một tình trạng lâm sàng mắc phải xảy ra khi mô xơ hình thành bên trong buồng tử cung và/hoặc ống cổ tử cung gây ra dính buồng tử cung một phần hoặc toàn bộ. Đây là nguyên nhân rất phổ biến dẫn đến tình trạng rối loạn kinh nguyệt, vô sinh, sảy thai, sinh non và sự bám bất thường của bánh rau.
Tỷ lệ mắc bệnh
Tỷ lệ xuất hiện hội chứng Asherman thay đổi tùy thuộc vào mỗi căn nguyên. Ở những phụ nữ có tiền sử sảy thai trước đó, tỷ lệ dính buồng tử cung dao động từ 6% đến 31%. Tỷ lệ này tăng lên theo số lần can thiệp vào buồng tử cung lần lượt là 16%, 14%, 31% sau một, hai và ba lần nạo thai, nạo sót rau. Mức độ nghiêm trọng (mỏng và dày) và phạm vi của các dải dính cũng tăng dần sau mỗi lần can thiệp. Nguy cơ dính buồng tử cung trong trường hợp nạo thai lưu (31%) cao hơn so với sảy thai không hoàn toàn (6%). Ở đối tượng phụ nữ vô sinh, tần suất phát hiện các dải dính trên soi buồng tử cung hoặc chụp tử cung vòi trứng dao động trong khoảng từ 1.5% đến 22%. Sự dao động lớn về tỷ lệ dính buồng tử cung liên quan tới sự nhạy cảm của bác sĩ lâm sàng, các tiêu chí được sử dụng để chẩn đoán, tỷ lệ viêm nhiễm cơ quan sinh dục hoặc nhiễm khuẩn hậu sản ở những vùng địa lý cụ thể và các quy định liên quan đến việc sử dụng các dụng cụ khi can thiệp vào buồng tử cung.
Tuy nhiên tỷ lệ thực sự của hội chứng Asherman rất khó để có thể xác định một cách chính xác vì các trường hợp dính buồng tử cung nhẹ thường không có triệu chứng và dễ dàng bị bỏ sót. Chính vì lý do này mà thuật ngữ “hội chứng Asherman” chỉ được áp dụng cho những phụ nữ dính buồng tử cung có triệu chứng lâm sàng bao gồm: kinh nguyệt không đều, vô sinh, sảy thai, bánh rau bám bất thường.
Nguyên nhân dính buồng tử cung
Yếu tố nguy cơ chủ yếu của dính buồng tử cung là các can thiệp trên tử cung có thai hoặc các phẫu thuật liên quan tới buồng tử cung như nạo thai, nạo sót rau, mổ lấy thai, cắt u xơ dưới niêm mạc, cắt vách ngăn tử cung,…
Can thiệp vào buồng tử cung khi có thai | Nguy cơ dính buồng tử cung |
Nạo buồng tử cung thô bạo sau sảy thai | 14% – 31% |
Nạo buồng tử cung trong thời kỳ hậu sản | 25% |
Nạo buồng tử cung chẩn đoán | 1.6% |
Cắt u xơ tử cung dưới niêm mạc | 31% – 45% |
Cắt vách ngăn tử cung | 6.7% |
Mổ lấy thai | 2% – 2.8% |
Phẫu thuật cắt u xơ tử cung đường bụng gây thủng niêm mạc tử cung hoặc khâu phục hồi không đúng lớp | 1.3% |
Lao sinh dục | 17.5% |
Viêm niêm mạc tử cung không đặc hiệu | 35.4% |
Xạ trị buồng tử cung |
Chẩn đoán dính buồng tử cung
Hiện nay có nhiều phương pháp chẩn đoán dính buồng tử cung, trong đó nổi bật là chụp tử cung vòi trứng, siêu âm phần phụ và soi buồng tử cung.
Chụp tử cung vòi trứng là một phương pháp sàng lọc đơn giản các tổn thương của buồng tử cung ở những bệnh nhân hiếm muộn, tuy nhiên phương pháp chẩn đoán này mang lại rất nhiều hạn chế. Chụp tử cung vòi trứng có độ nhạy kém trong việc phát hiện các dải dính nhỏ. Ngoài ra, khi chất cản quang được bơm vào buồng tử cung với lượng quá nhiều cũng làm mờ đi hình ảnh của các dải dính. Bên cạnh đó, chụp tử cung vòi trứng không thể xác định được bản chất các dải dính trong buồng tử cung, do đó không thể được sử dụng để đánh giá tiên lượng tổn thương.
Siêu âm tử cung phần phụ sử dụng đầu dò âm đạo có thể thấy được những dấu hiệu điển hình trong trường hợp dính buồng tử cung nặng. Tuy nhiên, siêu âm có độ nhạy và độ đặc hiệu khá thấp trong chẩn đoán dính buồng tử cung với giá trị lần lượt là 52% và 11%.
Soi buồng tử cung là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán dính buồng tử cung và đồng thời cũng là thước đo đánh giá hiệu quả của các kỹ thuật thăm dò khác. Phương pháp này không chỉ có giá trị chẩn đoán mà còn giúp xác định bản chất và mức độ nghiêm trọng của các dải dính rồi từ đó có thể ngay lập tức đưa ra các lựa chọn điều trị phù hợp trong cùng một thì. Hơn nữa khi phát hiện dính buồng tử cung, soi buồng tử cung có thể được áp dụng để phẫu thuật cắt bỏ các dải dính cho bệnh nhân ngay lập tức.
Do đó soi buồng tử cung là biện pháp chính xác nhất và được coi là chuẩn vàng của chẩn đoán.