Bệnh lý phụ khoa

Sức khỏe sinh sản vô cùng quan trọng, đặc biệt ở nữ giới, các bệnh lý thường xuất hiện nhiều hơn. Bệnh lý buồng tử cung có rất nhiều như u xơ tử cung, viêm nội mạc tử cung, vv. Cùng PK 4women bổ sung thêm thông tin về vấn đề này nhé

Nội dung

U xơ tử cung

u-xo-tu-cung
benh-ly-u-xo-tu-cung

U xơ tử cung là khối u lành tính có nguồn gốc tử cung phổ biến nhất của người phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Đây là bệnh lý buồng tử cung thường gặp nhất, tỷ lệ hiện mắc được báo cáo lên tới 70–80% xung quanh tuổi 50. U xơ tử cung được tìm thấy ở 5–10% phụ nữ bị vô sinh, và đây cũng là bệnh lý duy nhất có thể phát hiện được ở 1–2,4% phụ nữ vô sinh. 

U xơ tử cung cản trở khả năng sinh sản theo nhiều cơ chế khác nhau. Cơ chế phổ biến nhất đó là làm biến dạng buồng tử cung và gây tắc nghẽn cơ học đối với cổ tử cung hoặc lỗ vòi tử cung ngăn cản sự di chuyển của tinh trùng và phôi. Không chỉ giảm khả năng mang thai tự nhiên, u xơ tử cung còn giảm tỷ lệ thành công của các chu kỳ hỗ trợ sinh sản. Phẫu thuật cắt u xơ tử cung giúp cải thiện đáng kể khả năng thụ thai trong trường hợp vô sinh không rõ nguyên nhân với tỷ lệ có thai là 40-60% sau 2 năm.

Ở cấp độ phân tử, u xơ tử cung ảnh hưởng đến nội mạc tử cung và cản trở quá trình làm tổ của phôi. Sự biểu hiện của các gen quan trọng đối với quá trình làm tổ như HOXA 10, HOXA 11 và BTEB 1 thấp hơn đáng kể ở tử cung có nhân xơ dưới niêm mạc so với tử cung bình thường. Ngoài ra, các nhà khoa học cũng phát hiện ra rằng mức độ hoạt động của gen HOXA 10 không chỉ bị ảnh hưởng ở lớp nội mạc bao phủ u xơ tử cung mà còn bị ảnh hưởng bởi toàn bộ lớp niêm mạc của buồng tử cung. Điều này cho thấy rằng u xơ tử cung ngoài việc tác động cơ học tới lớp nội mạc tại chỗ còn gây ảnh hưởng tới toàn bộ lớp niêm mạc của buồng tử cung, từ đó giảm khả năng làm tổ tổng thể. Tổng quan gần đây của Cochrane cũng cho thấy cắt bỏ u xơ dưới niêm mạc bằng phương pháp soi buồng tử cung giúp cải thiện cơ hội mang thai lâm sàng ở những phụ nữ hiếm muộn không rõ nguyên nhân.

Bệnh lý thường gặp – Polyp nội mạc tử cung

Polyp nội mạc tử cung là sự phát triển lành tính tại chỗ quá mức của nội mạc tử cung. Ảnh hưởng của polyp tới việc mang thai vẫn chưa được hiểu rõ ràng. Một số cơ chế được đưa ra đó là gây cản trở sự di chuyển của tinh trùng, phôi hoặc biểu hiện bất thường của các dấu hiệu làm tổ. Ở những phụ nữ có polyp nội mạc tử cung, nồng độ của các chất đánh dấu như IGFBP-1 và osteopontin được tìm thấy thấp hơn bình thường. Khi thực hiện cắt polyp, sự biểu hiện của các dấu hiệu trên tăng lên đáng kể. Ngoài ra, tình trạng kháng progesteron trên những bệnh nhân này đã dẫn tới biểu hiện bất thường các thụ thể progesteron làm giảm khả năng cấy ghép của phôi.

Tỷ lệ polyp nội mạc tử cung khi soi buồng tử cung ở những người phụ nữ vô sinh không rõ nguyên nhân là 16-26%, và có thể lên tới 46% ở nhóm vô sinh phối hợp với lạc nội mạc tử cung . Có rất ít nghiên cứu được thực hiện để đánh giá ảnh hưởng của polyp đến khả năng sinh sản. Chỉ có một nghiên cứu ngẫu nhiên cho thấy sự cải thiện đáng kể tỷ lệ có thai trong các chu kỳ IUI sau khi cắt polyp (63% so với 28%). Ba thử nghiệm không ngẫu nhiên khác so sánh tỷ lệ có thai tự nhiên sau khi cắt polyp cũng cho thấy khả năng thụ thai tăng lên. Trong các chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm, ảnh hưởng của bệnh lý buồng tử cung – polyp nội mạc tử cung không rõ ràng. Polyp nội mạc tử cung có kích thước <2 cm có ảnh hưởng hạn chế đến kết quả IVF, nhưng cần có các nghiên cứu sâu hơn để đánh giá tác động thực sự của kích thước, số lượng và vị trí polyp nội mạc tử cung đối với sự thành công của IVF.

Nhiễm trùng nội mạc tử cung có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau. Sự giải phóng các sản phẩm trung gian viêm dẫn đến hậu quả vô sinh và thất bại trong việc cấy ghép của phôi. Tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ có thai lâm sàng thấp hơn ở phụ nữ bị viêm nội mạc tử cung mãn tính (8% và 11%) so với phụ nữ có kết quả sinh thiết nội mạc tử cung bình thường (31% và 58%). Khi sinh thiết nội mạc tử cung trong quá trình soi buồng tử cung thăm dò trước khi tiến hành chuyển phôi, viêm nội mạc cấp tính được tìm thấy ở 15% bệnh nhân. Tỷ lệ này có thể lên tới 42% ở những trường hợp cấy ghép thất bại nhiều lần. Khi những bệnh nhân bị viêm nội mạc tử cung được điều trị bằng liệu pháp kháng sinh phù hợp, tỷ lệ thành công của các chu kỳ IVF kế tiếp được cải thiện đáng kể.

Bệnh lý Viêm nội mạc tử cung

 

 

viem-noi-mac-tu-cung-benh-ly-thuong-gap
viem-noi-mac-tu-cung-benh-ly-thuong-gap

Bệnh lý vêm nội mạc tử cung có thể là cấp tính hoặc mãn tính. Viêm nội mạc tử cung cấp tính thường do vi khuẩn gây ra và có tính chất thoáng qua, không liên quan đến vô sinh về lâu dài và đáp ứng tốt với liệu pháp kháng sinh. Viêm nội mạc tử cung mãn tính có thể do vi khuẩn, vi rút hoặc ký sinh trùng gây ra. Nó liên quan đến phản ứng viêm mãn tính ở nội mạc tử cung và có thể là nguyên nhân gây vô sinh kéo dài. Ở các nước đang phát triển, bệnh lao là căn nguyên phổ biến gây viêm nhiễm vùng chậu và ảnh hưởng tới khả năng sinh sản. Lao sinh dục hay gặp ở đối tượng phụ nữ trong độ tuổi sinh sản (20-40 tuổi), có thể diễn biến thầm lặng trong vòng nhiều năm và đôi khi được chẩn đoán thời điểm bệnh nhân đi khám vô sinh. Lao sinh dục thường xuất hiện thứ phát sau lao phổi hoặc sau nhiễm trùng tiên phát ở những vị trí khác trong cơ thể. Vi khuẩn lao gây ra sự phá hủy đáng kể các lớp nền biểu mô ống dẫn trứng và nội mạc tử cung, liên quan đến việc giảm tỷ lệ thành công trong các chu kỳ IVF.

Bệnh lý dính buồng tử cung

Dính buồng tử cung  là nguyên nhân thường gặp dẫn đến sự thất bại làm tổ lặp đi lặp lại. Nó là hậu quả của các bệnh lý viêm nhiễm vùng chậu, tổn thương niêm mạc tử cung do nạo buồng tử cung thô bạo hoặc nhiễm khuẩn huyết trong thời kỳ hậu sản. Các dải dính mỏng không ảnh hưởng nhiều đến khả năng sinh sản. Tuy nhiên các dải dính dày lại gây biến dạng buồng tử cung, xơ hóa nội mạc tử cung, giảm cung cấp máu nuôi dưỡng, liên quan đến vô sinh và thất bại làm tổ nhiều lần. Sự hình thành các dải dính có thể được ngăn chặn bằng cách sử dụng estradiol liều cao hoặc làm căng cơ học sau các can thiệp vào buồng tử cung. Soi buồng tử cung trước mỗi chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm giúp chẩn đoán dải dính trong buồng tử cung và có thể điều trị đồng thời. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc tách dính buồng tử cung đã cải thiện đáng kể tỷ lệ thành công của các phương pháp hỗ trợ sinh sản. Bệnh nhân cũng nên được tư vấn về khả năng xảy ra các biến chứng thai kỳ như rau tiền đạo.

Bệnh lý buồng tử cung thường gặp – Tử cung có vách ngăn

Tử cung có vách ngăn là dị dạng bẩm sinh hay gặp hình thành do sự phát triển bất thường của ống Muller. Vách ngăn có thể một phần hoặc hoàn toàn, gây biến dạng của tử cung, giảm không gian trong buồng tử cung. Sự phát triển của nội mạc tử cung và hệ mạch máu nuôi dưỡng tại vị trí vách ngăn kém phong phú hơn bình thường. Tử cung có vách ngăn thường dẫn tới sảy thai liên tiếp. Phẫu thuật cắt vách ngăn giúp cải thiện đáng kể tỷ lệ sinh sống, và nó cũng được coi là phương pháp điều trị đầu tay ở bệnh nhân đang điều trị vô sinh. Cắt bỏ vách ngăn tử cung bằng soi buồng tử cung có liên quan đến việc cải thiện khả năng sinh sản ở bệnh nhân vô sinh không rõ nguyên nhân. Chưa có nghiên cứu ngẫu nhiên nào so sánh kết quả của việc soi buồng tử cung cắt vách ngăn ở những bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm; do đó, tác động của phẫu thuật trên chưa thể kết luận, và cần phải có các nghiên cứu sâu hơn để đánh giá.

Buồng tử cung là bộ phận quan trọng trong phát triển nòi giống của nữ giới. Các loại bệnh lý buồng tử cung này có ảnh hưởng rất lớn đến cơ chế làm việc của nó. Cho nên bạn cần tìm hiểu kỹ và đi khám định kỳ nhằm đảm bảo sức khỏe của chính mình. Pk 4women có đội ngũ bác sĩ giỏi, thăm khám chuyên sâu sẽ luôn đồng hành cùng bạn.

 

Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận

Gửi câu hỏi cho bác sĩ

    Đóng